Những thay đổi trong cách sử dụng Yamato

Vào khoảng thời kỳ Kofun, văn hóa chữ Hán bắt đầu được du nhập vào quần đảo Nhật Bản. Thời đó, từ Yamato được lấy chữ Hán để ghi, vì 倭 là cách người Trung Quốc gọi các thế lực chính trị đang chi phối quần đảo Nhật Bản trong khi người Nhật gọi thế lực đại biểu cho các thế lực chính trị đó là Yamato.[1]

Đến thời kỳ Asuka, Yamato hay được viết nhất bằng chữ Hán . 大倭 vừa dùng để gọi thế lực chính trị tiêu biểu ở quần đảo Nhật Bản, vừa dùng để gọi vùng đất Nara ngày nay. Từ khoảng nửa sau thế kỷ 7 đến năm 701, nước có quốc hiệu ghi bằng chữ Hán là và có thuyết cho rằng chữ này được phát âm là Yamato.[2]

Sau đó, cách ghi Yamato bằng chữ Hán là 大倭国 bắt đầu xuất hiện và vẫn thấy đến tận giữa thời kỳ Nara.

Khoảng năm 752 hoặc 757, cách ghi Yamato bằng chữ Hán là bắt đầu thay thế cho 大倭国.

Ngoài ra, còn có một số cách ghi Yamato khác, như ghi là 夜麻登 trong Man'yōganaFurukoto Fumi, là 山跡 trong Furukoto Fumi, là 野麻登, 椰麽等, 夜麻苔 trong Yamato Bumi, là 山常, 也麻等, 夜末等, 夜万登, 八間跡 trong Man'yōshū.